CÓ GÌ SAI KHÔNG VỚI VIỆC ĐÁNH GIÁ CÔNG TRẠNG? TẠI SAO ĐỐI XỬ ‘BÌNH ĐẲNG’ KHÔNG THƯỞNG CHO NGƯỜI XỨNG ĐÁNG NHẤT
Tác giả/Author: , Deakin University
Người dịch/Translator: Doãn Thi Ngọc- Giảng viên, các nhà cái uy tín siyanks
Chỉ có một phụ nữ được bổ nhiệm trong tổng số 19 người thuộc Ban Nội Các của thủ
tướng mới của Úc, Tony Abbott. Do đó, các diễn đàn trực tuyến đã sôi sục với cuộc
tranh luận về đại diện giới tính trong nền chính trị liên bang.
Một số lời giải thích đã được đưa ra về lý do tại sao các nữ nghị sĩ Đảng Tự do vẫn
chỉ“gõ cửa” cho các vị trí trong Nội Các. Tuy nhiên, một số người cũng phủ nhận rằng
không có bất kỳ vấn đề gì với việc tân ngoại trưởng Julie Bishop là người phụ nữ duy
nhất ngồi ghế đầu.
Một trong những lời bào chữa thường xuyên nhất được viện dẫn để giải thích cho quốc
hội Úc là việc có đa số nam giới là do “công trạng hay thực lực”. Theo logic xứng đáng,
một người thể hiện khả năng cao nhất cho một công việc thì một vị trí tại trường đại học
hoặc thậm chí một vị trí trong Nội Các liên bang sẽ được lựa chọn và dành cho họ, bất
kể các yếu tố nào khác.
Điều này nghe có vẻ công bằng trên bề nổi. Một người đã làm việc chăm chỉ và thể hiện
những phẩm chất vượt trội so với tất cả các ứng viên khác thì họsẽ thành công.
Vấn đề cần bàn về ý tưởng xứng đáng ở đây là nó cho rằng tất cả mọi người đều có cơ
hội thành công như nhau. Phong trào hướng tới bình đẳng chính thức thông qua luật
chống phân biệt đối xử đã tạo ra ấn tượng rằng không có rào cản nào đối với sự tham
gia của phụ nữ, người bản địa, người GLBTIQ, người khuyết tật và người da màu tại nơi
làm việc và cuộc sống công cộng.
Ví dụ, Đạo luật phân biệt giới tính của Khối thịnh vượng chung (1984) đã cấm quảng cáo
việc làm cho “đàn ông”, “con trai”, “phụ nữ” hoặc “con gái”. Nó quy định rằng phụ nữ
không còn được trả mức lương thấp hơn khi thực hiện các nhiệm vụ giống như nam giới
và cũng như tìm cách bảo vệ phụ nữ khỏi bị sa thải khi mang thai.
Phép ẩn dụ về một cuộc đua đang chạy thường được sử dụng khi so sánh các mô hình
bình đẳng. Mô hình chính thức, mà mọi người viện dẫn khi họ thảo luận về giá trị và
“người tốt nhất cho công việc”, xem tất cả các đối thủ cạnh tranh ở vị trí của họ trên
cùng một vạch xuất phát.
Nó không cho phép liệu một số vận động viên ẩn dụ này có thể đã được huấn luyện tại
Viện Thể thao Úc với quyền tiếp cận với các huấn luyện viên và thiết bị ưu tú hay không,
trong khi các đối thủ khác có thể đến vạch sau khi được tự huấn luyện và không có giày
chạy bộ để mang. Rõ ràng, đối thủ thứ hai đang gặp bất lợi trong cuộc đua “sòng
phẳng” này. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu anh ấy hoặc cô ấy thực sự có tiềm năng
trở thành người nhanh nhất nếu được cấp quyền truy cập vào cùng một tài nguyên?
Một ví dụ thực tế về việc mô hình bình đẳng chính thức thất bại như thế nào là trong
trường hợp Người bản địa tham gia vào giáo dục đại học. Tất cả học sinh trung học Úc
đều có cơ hội dự thi Lớp 12 và đăng ký vào đại học. Tuy nhiên, học sinh bản địa ở các
địa điểm xa xôi nói riêng không có cùng nguồn tài chính, cơ sở vật chất trường học và
hoàn cảnh cộng đồng để hỗ trợ họ trở nên xuất sắc.
Việc áp dụng nghiêm ngặt khái niệm thành tích sẽ không tính đến những thiệt thòi mà
học sinh bản địa gặp phải so với trẻ em nội thành ở các trường tư thục.
Để đạt được sự bình đẳng về kết quả – hay bình đẳng thực chất – chúng ta phải từ bỏ
những quan niệm về thành tích, bỏ qua những bất lợi xã hội, và những rào cản có thể
ngăn cản các ứng cử viên giỏi ngang nhau hoặc tốt hơn tham gia cuộc đua. Một số
người cho rằng khái niệm đối xử bất bình đẳng thông qua hạn ngạch, hoặc cơ chế gia
nhập đặc biệt là khó chịu và không công bằng, nhưng điều quan trọng là phải nhận ra sự
không công bằng của giả định về một vạch xuất phát bình đẳng vốn có trong khái niệm
năng lực.
Khi các trường đại học khuyến khích tuyển sinh sinh viên Bản địa, ngay cả khi điểm số
mà sinh viên đạt được ở trường không đáp ứng yêu cầu thông thường, họ không chỉ
đơn giản là phạt những sinh viên đã thể hiện “năng lực-merit”. Thay vào đó, họ đang làm
việc để khắc phục nhược điểm mang tính hệ thống dẫn đến kết quả không bình đẳng (đại
diện người bản địa kém trong giáo dục đại học).
Khi các đảng phái chính trị hành động để chống lại tình trạng thiếu đại diện của phụ nữ,
như trong ví dụ về EMILY’s List của nhóm liên kết với Đảng Lao động, nhằm tìm cách
tăng số lượng ứng cử viên nữ từ năm 1996, hoặc sáng kiến Foundation 51 đã được đề
xuất để phát triển và tuyển dụng những người theo Đảng Tự Do, không nhất thiết phải là
những người đàn ông “có công trạng” cho các vị trí này, mà đúng hơn, đó là việc thừa
nhận những lý do văn hóa và xã hội khiến nhiều phụ nữ khó tham gia chính trị hơn.
Điều đó có nghĩa là thừa nhận rằng cuộc đua đang chứng kiến hầu hết phụ nữ bắt đầu
với một điểm cản rất lớn và một số ứng cử viên “tốt nhất” của chúng tôi thực sự có thể bị
giới hạn trong khu vực dành cho những vị trí này, trừ khi chúng ta hành động để hướng
tới sự bình đẳng về kết quả.
Úc là một quốc gia có thiện cảm với khái niệm “fair go”. Do đó, chúng ta phải nhận ra
rằng đạt được vị trí nào đó nhờ vào “bằng khen hay công trạng” không có nghĩa là
không có những ứng cử viên tốt hơn ngoài kia đang bị thiếu đặc quyền và bị thiếu cơ hội
tương tự.
Báo The Conversation và tác giả Michelle Smith, Deakin University cho phép
Gendertalkviet dịch sang tiếng Việt và đăng toàn văn. Thay mặt cho, Ban
Biên Tập Gender Talk, chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tác giả và
Báo The Conversation cho phép chúng tôi đăng lại bài toàn văn. Sự đóng
góp của Quý Báo The Conversation và tác giả rất quý giá và ý nghĩa.
Link gốc: //theconversation.com/whats-wrong-with-merit-why-equal-
treatment-does-not-reward-the-most-deserving-18317
Link Tiếng Việt: //gendertalkviet.blogspot.com/2023/06/co-gi-sai-khong-
voi-viec-anh-gia-cong.html